Khái quát lịch sử Vương quốc Chăm Pa

Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015


Sau khi nhà nước Văn Lang – Âu Lạc được thành lập trên địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mà hạt nhân là tộc người Việt thì ở địa bàn Trung và Nam Trung Bộ tộc người Chăm sinh sống ở ven biển miền Trung nước ta và tên tộc người được gọi theo tên nước sau này thành lập.

Khái quát lịch sử Vương quốc Chăm Pa

Quá trình hình thành và đấu tranh tồn tại của vương quốc Chăm Pa có thể được chia làm hai giai đoạn:
- Sự hình thành các tiểu quốc đầu tiên (thế kỉ I – IV)
Theo truyền thuyết dân gian và bi kí của người Chăm, trên địa bàn văn hoá Sa Huỳnh có hai bộ lạc sinh sống. Bộ lạc Dừa ở vùng Quảng Nam Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay và chắc chắn họ đã có các quan hệ với bộ phận cư dân ở Bình – Trị – Thiên. Bộ lạc Cau cư trú ở vùng Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay. Không phải ngay từ dầu đã có một vương quốc chung cho hai bộ lạc mà hai tiểu vương quốc được hình thành ở những thời điểm khác nhau.
+ Tiểu quốc ở Nam Chăm
Bộ lạc Cau ở phía Nam đèo Cù Mông lập ra tiểu quốc của mình vào khoảng đầu công nguyên và tiếp tục phát triển độc lập trong vài thế kỉ. Tiểu quốc Nam Chăm có thể có một tên gọi riêng từ sớm mà mãi sau đó ta mới thấy tên chính thức qua bi kí, là Pan Ran (tên Chăm cổ) hoặc Panduranga (tên chữ Phạn). Lãnh thổ của tiểu quốc này gồm vùng đất thuộc Nam Trung Bộ.
-     Tiểu quốc ở Bắc Chăm
Năm ỉ 11 tr.CN, nhà Hán thay thế nhà Triệu thống trị Âu Lạc và Ịậpthêm quận Nhật Nam. Quận này được chia làm 5 huyện, trong đó có huyện Tượng Lâm (Quảng Nam ngày nay) là một vùng trong địa bàn của bộ lạc Dừa. Các huyện khác của Nhật Nam (Bình – Trị – Thiên ngày nay) có sự đan xen giữa cư dân Việt cổ và cư dân gốc Mã Lai-Đa Đảo. Dưới ách thống trị của nhà Hán, nhân dân ở Tượng Lâm và Nhật Nam đã nhiều lần vùng lên khởi nghĩa phối hợp với nhân dân ở Giao Chỉ, Cửu Chân. Đến cuối thế kỉ II, dân Tượng Lâm đã khởi nghĩa thắng lợi, người lãnh đạo khởi nghĩa có tên là Khu Liên lên làm vua. Khu Liên chắc không phải là tên người mà có thể là sự chuyển âm từ ngôn ngữ cổ Đông Nam Á, có nghĩa là tộc trưởng, vua. Quốc gia mới được lập nên đó của dân Tượng Lâm một thời gian dài được các thư tịch cổ Trung Hoa gọi là nước Lâm Ấp. Sách Thủy kinh chú giải thích rõ: Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm… sau bở chữ Tượng chỉ gọi Lâm Ấp. Các quan lại người Hán nhiều lần đem quân đánh Lâm Ấp nhưng không được vì Lâm Ấp dựa vào thế hiểm trở chống cự được.


Chính quyền Hai Bà Trưng đến Nhà nước Vạn Xuân


Chính quyền Hai Bà Trưng
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ vào mùa xuân năm 40 đã nhanh chóng thắng lợi, lật đổ chính quyền đô hộ ở 65 thành trì. Hai Bà Trưng xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Âu Lạc cũ. Trong chính sử không thấy ghi chép về tổ chức và pháp luật của Chính quyền Hai Bà Trưng. Với thời gian độc lập ngắn ngủi Hai Bà Trưng chưa thể có điều kiện để xây dựng một bộ máy chínhquyền vững chắc và có lẽ vẫn chủ yếu sử dụng những luật lệ cổ truyền của người Việt để quản lí đất nước. Các lạc tướng – những người từng theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa vẫn được cai quản các địa phương. Sách Thủy kinh chú cho biết, Hai Bà Trưng đã bãi bở các thứ thuế nặng nề do chính quyền đô hộ đặt ra, xá thuế hai năm liền cho dân hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân.

Chính quyền Hai Bà Trưng đến Nhà nước Vạn Xuân

Mùa hạ năm 42, Hán Quang Vũ sai tướng Mã Viện đem quân sang xâm lược lại nước ta. Năm 43, Mã Viện diệt được chính quyền Hai Bà Trưng.
Như vậy, chính quyền Hai Bà Trưng là chính quyền độc lập đầu tiên của nước ta sau hơn hai trăm năm Bắc thuộc.
Nhà nước Vạn xuân (544 – 603)
Đến nửa sau của thế kỉ VI, khởi nghĩa của Lý Bí chống nhà Lương thắng lợi. Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi vua, lấy tên hiệu là Nam Đế, đặt quốc hiệu Vạn Xuân, đúc tiền riêng. Những hoạt động đó là sự hiên ngang phủ nhận quyền làm chủ thiên hạ của hoàng đế phương Bắc, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc ta.
Theo những tư liệu lịch sử ít ởi còn lưu giữ được, cơ cấu triều đình Nam Đế vẫn còn đơn giản. Giúp việc Hoàng Đế có hai ban văn võ, Triệu Túc làm thái phó, Lý Phục Man làm tướng coi giữ miền biên ải. Lý Nam Đế cho xây đài Vạn Xuân để làm nơi văn võ bá quan triều hội. Nhà nước Vạn Xuân chỉ ổn định được hơn một năm. Tháng 7 năm 545, nhà Lương tiến hành phản công chính phục, triều đình Vạn Xuân phải bở kinh thành rút vào vùng rừng núi và đầm lầy tổ chức kháng chiến. Năm 548 Lý Nam Đế mất, lực lượng còn lại phải phân tán, một theo Lý Thiên Bảo (anh ruột Lý Bí) và Lý Thiệu Long (Lý Phật Tử) rút vào miền Trung; một cánh khác theo Triệu Quang Phục rút về vùng đầm lầy Dạ Trạch (Hưng Yền). Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương. Ở phương Bắc, nhà Lương suy yếu và bị nhà Trần thay thế vào năm 557. Lợi dụng thòi cơ thuận lợi, năm 551, Triệu Việt Vương từ căn cứ Dạ Trạch tiến đánh quân Lương và chiếm lại thành Long Biên, giành lại quyền tự chủ cho nhà nước Vạn Xuân. Về cánh quân kháng chiến miền Trung, sau khi Lý Thiên Bảo qua đởi, Lý Thiệu Long lên thay. Năm 557 Lý Thiệu Long kéo quân ra gây chiến với Triệu Việt Vương. Hai bên đánh nhau không phân thắng bại nên phải giảng hoà, chia địa giới cát cứ; họ Triệu đóng đô ở Long Biên, họ Lý đóng đô ở Ô Diên (Đan Phượng, Hà Tây ngày nay). Nãm 571, Lý Thiệu Long đánh úp Triệu Việt Vương, đoạt toàn bộ quyền hành và đất đai. Ông cũng tự xưng lí Lý Nam Đế (hậu Lý Nam Đế) và bề ngoài cũng thần phục nhà Trần. Ở Trung Quốc, nhà Tùy thay thế nhà Trần năm 589, đến năm 603 nhà Tùy tiến hành chiến tranh xâm lược chinh phục được Nhà nước Vạn Xuân.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: hoc lich su