Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015
Chính
sách đồng hoá
Đồng
hoá được coi là quốc sách của các triều đại phong kiến Trung Hoa nhằm Hán hoá
dân tộc Âu Lạc. Các chính quyền đô hộ bằng mọi cách để thay thế hoặc huỷ hoại
tất cả những gì là cơ sở tồn tại và sức mạnh khôi phục độc lập của một quốc
gia, một dân tộc như lãnh thổ, tiếng nói, phong tục tập quán, lối sống, y thức
tư tưởng, văn hoa… Chính sách đó được thể hiện bằng nhiều biện pháp và cách
thức khác nhau, trong đó có những điểm chính là: Xoá bỏ tên nướcÂu Lạc, biến nó
thành một bộ phận lãnh thổ của chính quốc và biến cư dân Lạc Việt thành thần
dân của Hoàng đế Trung Quốc; áp đặt hệ thống chính quyền đô hộ theo mô hình tổ
chức chính quyền địa phương ở nhà nước phong kiến Trung Quốc, hầu hết quan lại
trong các cấp chính quyền đều được cử từ chính quốc sang, một số quý tộc người
Việt chỉ được giao cho những chức quan nhỏ; áp dụng rộng pháp luật của phong
kiến Trung Quốc vào Âu Lạc và tích cực truyền bá tư tưởng Nho giáo sang Âu Lạc.
Tuy
nhiên, qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mặc dù có chịu ảnh hưởng và tiếp thu
không ít yếu tố của văn hoá Hán, nhưng Âu Lạc vẫn là đại diện cuối cùng và duy
nhất còn sót lại của đại gia đình Bách Việt, vừa không bị đồng hoá vừa giành
lại được độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước.
Thời
kì Bắc thuộc cũng là thời kì chống Bắc thuộc, chống Hán hoá liên tục, quyết
liệt, kiên cưởng giữ vững tính tự chủ, tự quản và những tập quán, phong tục của
làng xã, bền bỉ tiến hành những cuộc đấutranh vũ trang anh dũng giành độc lập
dân tộc của người Việt.
Chính
sách “ràng buộc lỏng lẻo”
Nền
đô hộ của phong kiến Trung Quốc ở Âu Lạc về tính chất rất tàn bạo và nặng nề
nhưng về phương thức cai trị lại là chính sách “ràng buộc lởng lẻo”. Từ Triệu,
Hán cho đến Tùy, Đường, phương thức cai trị này được chính họ khẳng định: “Ràng
buộc lởng lẻo” (Tam Quốc Chí), “Đất Giao châu tuy có nội thuộc nhưng chỉ là đất
ràng buộc lởng lẻo” (Lởi Tùy Cao tổ)… Chính sách ràng buộc lởng lẻo được thể
hiện như sau:
-
Chính quyền đô hộ không trực trị tới cấp huyện trong thòi gian đầu và trong
suốt thời Bắc thuộc không thể với tới các làng, xã. Các triều đại phong kiến
Trung Hoa chỉ cướp được nước Âu Lạc chứ không trực trị được các làng Việt. Một
học giả Phương Tây sau này đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một toà
nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền mà không thay đổi cấu trúc bên trong.
Nhiều
vùng rộng lớn vẫn nằm ngoài phạm vi cai tộ của chính quyến đô hộ. Miền Ô Thử
(Quảng Ninh ngày nay) mãi đến cuối Hán (1). Dẫn theo Lịch sử Việt Nam, tập I,
Sđd mới
lập được chính quyền đô hộ cấp huyện thì lại bị dân nổi lên đánh phá và cho đến
đởi Ngô hàng mấy vạn nhà dân vùng này vân chưa chịu thuần phục. Tiền Phù Nghiêm
(Bấc Cạn, Thái Nguyên ngày nay) đến đởi Tấn mới lập được huyện. Miền Lâm Tây
(Tây Bắc) cho đến đởi Đường vẫn không cai trị nổi. Bởi vậy nhà đã phải
lập những “châu ky my” (ràng buộc lỏng lẻo) ở những vùng núi xa và vãn phải cho
các tù trưởng địa phương tự quản.
Các
hoàng đế Trung Hoa nắm quyền sở hữu tối cao đối với ruộng đất Âu Lạc và coi dân
Âu Lạc là thần dân của mình do đó đã sử dụng hai hình thức bóc lột chủ yếu là
cống nạp và thuế khoá.
Sản
phẩm cống nạp thưởng là lâm, thổ, hải sản và sản phẩm thủ công quý hiếm, thậm
chí đôi khi cả những thợ thủ công lành nghề. Theo sách Thông điển của Đỗ Hựu,
cống phẩm của mỗi châu hàng năm trị giá bằng 50 tấm lụa. Ngoài chế độ cống nạp
lại thêm nhiều thứ thuế mới mà nhà Đường cũng phải công nhận là rất nặng. Trong
đó thuế ruộng đất là chủ yếu. Riêng thuế muối hàng năm ở Âu Lạc cũ lên tới 40
vạn quan tiền (Tân Đường Thư). Việc thu cống phẩm và thuế khoá thưởng được giao
khoán cho các quý tộc Lạc Việt.
Như
vậy bên cạnh cơ cấu chính trị-xã hội-kinh tế cổ truyền của các làng xã vẫn được
bảo tổn bền vững thì ở mức độ và phạm vi nhất đinh quan hệ sản xuất phong kiến
và thượng tầng chính trị-pháp lí phong kiến được áp đặt và hiện diện ở Âu Lạc.
Từ khóa
tìm kiếm nhiều: học lịch
sử
0 nhận xét:
Đăng nhận xét