Cuộc nội chiến lần thứ hai năm 1648

Thứ Tư, 1 tháng 7, 2015

         Mâu thuẫn giữa các phái trong Quốc hội và quân đội là cơ hội cho phái Báo hoàng ngóc đầu dậy ở một số địa phương, với mưu đồ phục hổi vương ưiều Xtiua. Vua Sắclơ I đã bỏ trốn khởi trại giam, tìm cách tuyển mộ quân lính.

Cuộc nội chiến lần thứ hai năm 1648

    Cuộc nội chiến thứ hai nổ ra vào đầu năm 1648. Lúc đầu, được quân của phái Trưởng lão cánh hữu ở Xcôtlen giúp sức, lại do sự nổi loạn của binh sĩ trên 10 chiến thuyền của Quốc hội, vì chưa nhận được tiền lương và nghe theo lởi xúi giục của bọn Bảo hoàng cho tàu chạy sảng Hà Lan nên phái Báo hoàng thu được một số thắng lợi; Luân Đôn bị uy hiếp. Trước tình hình đó, phái Độc lập lại liên minh với phái Sản bằng. Sự hợp tác giữa hai phái này là nhàn tố cơ bản bào đàm cho sự thắng lợi của lực lượng cách mạng trong giai đoạn thứ hai của cuộc nôi chiến. Trong: khi đó, phái Trưởng lão trong Quốc hội, Hội đổng thành phố Luân Đôn, ở khu Xiti và trong cả nước tìm mọi cách cản trở cuộc đấu tranh của quần chúng, đòi phải tiếp tục đàm phán với Sáclơ I, trì hoãn, việc tiếp tế cho quân đôi… Tuy vậy, Sáclơ I không chịu nhượng bộ, mong chở sự giúp đỡ của các lực lượng phản động châu Âu, trước hết là Pháp (Sáclơllàcon rể vua Lui XIII của Pháp).
       Được sự ủng hộ và giúp đỡ của quần chúng nhân dân, cộng thêm tài chỉ huy quân sự củaCrômoen, quân dội cách mạng đã sớm đánh tan dược đội quân của nhà vua và bọn Bảo hoàng.
       Tháng 8 năm 1648, ở phía Bắc Anh tại Prextơn (Preston) 9000 binh lính dưới sự chỉ huy của Crômoen đã giành được một chiếnthắng vang dội trước quân Xcôtlen và những phần tử Bảo hoàng người Anh. Lại một lần nữa, Sáclơ Ibị bắt làm tù binh. Quânđội Anh đã chiếm đóng Êđinbuốc (Thủ đô của Xcôtlen) và phần lãnh thổ còn lai của Xcôtlen.
      Nhận thấy tham vọng nắm giữ chính quyến của phái Độc lập và mong muốn đưa cách mạng đi lên của phái Sơn hằng nên phía Trưởng lão đã tìm cách làm tan vỡ sự liên minh giữa phái Độc lập và Sản bằng. Phái Trưởng lão vẫn tiếp tục điểu đình với Sáclơ I, và thông qua quyết định giải tán quân đội. Trước tình hình đó, các chỉ huy quân đội ngăn khống cho Sáclơ I tiếp xúc với phái Trưởng lão. Ngày 6 tháng 12 năm 1648, lực lượng quân đội do phái Độc lập kiểm soát dưới sự lãnh đạo của Đại tá Praiđơ bao vây trụ sở Quốc hội, trục xuất 96 đại biểu của phái Trưởng lão, bắt giam 47 kẻ ngoan cố và chỉ để lại khoảng 50 đại biểu là người phái Độc lập hoặc ủng hộ phái Độc lập. Kể từ lúc này, Quốc hội dài được gọi là “Quốc hội cụt”; phái Độc lập đã chiếm được chính quyền và giành được ưu thế trong Quốc hội
Do sức ép của quần chúng, Quốc hội thành lập một toà án đặc biệt, gồm 135 thành viên, để xét xử nhà vua.
      Ngày 20 tháng 1 năm 1649, toà án đặc biệt dưới sự chủ tọa của một luật sư Giôn Bratso (John Bradsaw) trình bày bản cáo trạng đầy đủ chứng cứ để kết tội Sáclơ I là một kẻ “độc tài, phản quốc, ám sát vở là kẻ thù của Nhà nước”.
        Ngày 30 tháng 1 năm 1649, trước sự chứng kiến của đông đảo dân chúng và binh lính, Sáclơ I bị chém đầu, với tội danh chống lại quyền lợi của nhân dân.
       Ngay sau khi Sáclơ I bị chặt đầu, Thượng viện cũng giải tán vì là một công -cụ của nhà vua chuyên chế. Ngày 7 tháng 2 năm 1649, chế đọ quân chủ “vô dụng, ăn bám và nguy hiểm” bị tuyên bố xoá bỏ. Ngày 19 tháng 5 năm 1649, Anh được chính thức tuyên bố là một “nước Cộng hoà và Nhà nước tự do”. Hạ viện trở thành cơ quan nắm quyền lưc tối cao của Nhà nước một cơ quan hành pháp có tên là “Hội đồng Nhà nước” được thành lập gồm 41 thành viên (là những nhân vật tích cực nhất trong cuộc nội chiến chống lại Sáclơ I và Thượng viện).
       Sau khi Sáclơ I bị xử tù, Cách mạn % tư sản Anh phát triển đến đỉnh cao. Tuy phái cầm quyền thục hiên một số biện pháp tích cực (xoá bở chế độ quân chủ, quy định Anh là một nước Cộng hoà theo chế độ một viện của Quốc hội), nhưng thực chất của chế độ cổnẹ hoà vần là một nền chuyên chính của tầng lớp Iren thuộc phái Độc lập, nằm dưới sự lãnh đạo của Crômoen và các tướng lĩnh cấp cao trong quân đội.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét