Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015
Các thuộc địa miền Bắc và miền Trung thường kinh doanh theo phương
thức tư bản chủ nghĩa, nhưng tại miền Trung, ruộng đất tập trung thành các
trang viên lớn của đại địa chủ và quan lại triều đình Anh. Trong khi đó, ở miền
Bắc, chế độ tư hữu nhỏ kiểu tư bản chủ nghĩa lại chiếm địa vị thống trị. Những
người nông dân tư hữu nhỏ (trại chủ), thường tự lao động, khai khẩn một lô đất
nhỏ, tạo thành trang trại, trồng các loại cây lương thực và chăn nuôi gia súc.
Bên cạnh nông nghiệp, họ còn làm thêm cả nghề thủ công. Các trại chủ phải chịu
thuế má nặng nề của chính quyền thực dân, bị thương nhân bắt bí khi mua nông
phẩm, bị chế độ sở hữu ruộng đất lớn của đại địa chủ chi phối nên thường xuyên
đứng trước nguy cơ bị phá sản. Khi bị bần cùng hoá, họ chạy về miền Tây rộng
lớn, tiếp tục chiếm đất lập trang trại mới.
Một số thợ thủ công, công nhân cũng chạy về miền Tây để chiếm
đất. Khuynh hướng phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp Mĩ đã được
Lênin gọi là “con đường kiểu Mĩ”. Nhờ biện pháp chiếm đất tự do, nông dân Bắc
Mĩ chống lại sự du nhập chế độ bóc lột phong kiến vào đây.
Ở các bang thuộc địa miền Nam, chế độ sở hữu ruộng đất lớn chiếm
vị trí chủ đạo, dưới hình thức các đồn điền lớn, sử dụng chủ yếu lao động nô lệ
da đen. Vào khoảng giữa thế kỉ XVIII, tại Bắc Mĩ có khoảng 1 triệu nô lệ. Họ bị
cưỡng bức làm việc, chịu nhiều hình phạt đã man. Kinh tế đồn điền ở đây, tuy
dựa vào sức lao dộng của người nô lệ, nhưng lại gắn liền với phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Chế độ nô lệ đồn điển ở Bắc Mĩ khác hẳn về tính chất so
với chế độ chiếm hữu nô lệ thời cổ đại, c. Mác nhận xét rằng, trong điều kiện
lịch sử cụ thể của Bắc Mĩ, nhà tư bản và địa chủ thống nhất lại thành một nhân
vật duy nhất là chủ nô.
Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
Đến giữa thế kỉ XVIII, kinh tế công – nông – thương nghiệp
tư bản chủ nghĩa của 13 thuộc địa đã có sự khởi sắc.
Nhờ có những điều kiện thuận lợi, như đất đai phì nhiêu, khí hậu
đa dạng (ôn đới, cân nhiệt đới), tài nguyên thiên nhiên phong phú (quặng, rừng,
thuốc lá, bông, lúa..), cộng thêm sự du nhập sớm của quan hệ sản xuất mới – tư
bản chủ nghĩa – mà nền kinh tế của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ phát triển tương
đối nhanh chóng. Các bang không những chỉ tự túc được nhu cầu lương thực, thực
phẩm của mình, mà còn có thừa để xuất khẩu sang châu Âu, với số lượng ngày càng
lớn, các mặt hàng như: ngũ cốc, súc vật, thuốc lá, rượu rum…
Tại 4 thuộc địa miền Bắc đã xuất hiện nhiều công trưởng thủ công
tư bản chủ nghĩa, dưới hai hình thức tập trang và phân tán, nằm rải rác dọc các
miền ven biển, chuyên sản xuất rượu, làm bột, thuỷ tinh, luyện sắt… Phát triển
mạnh nhất là ngành công nghiệp đóng tàu, nhờ tận dựng nguồn lợi thiên nhiên về
gỗ khá phong phú (có tới 1/3 trọng tải của hạm đội Anh được đóng tại Bắc Mĩ).
Cùng với sự phát triển của công nghiệp, nền thương nghiệp Bắc Mĩ cũng ngày một
phát triển. Nhiều hàng hoá công nghiệp, nông phẩm được xuất khẩu sảng châu Âu
và Đông Ấn Độ (các loại nông cụ, vũ khí, sắt, đồng, da thú quý, bát dĩa tráng
men…). Giữa các thuộc địa cũng có sự trao đổi hàng hoá ngày càng nhộn nhịp, ví
dụ hàng công nghiệp ở các bang miền Bắc được đem sang các bang miền Nam để đổi
lấy các cây công nghiệp. Trở thành trung tâm công, thương nghiệp của các thuộc
địa. Vì quyền lợi của thương nhân Anh, chính quyền thực dân còn khuyến khích
việc buôn bán nô lệ da đen tại các hải cảng của Bắc Mĩ.
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
học lịch sử
0 nhận xét:
Đăng nhận xét